Các sai lầm thường gặp trong chẩn đoán và điều trị bệnh gout

Gout là bệnh một bệnh mạn tính nguy hiểm, gây đau đớn rất nhiều cho bệnh nhân. Việc hiểu sai các kiến thức về bệnh gout và điều trị gout làm cho quá trình điều trị gặp nhiều khó khăn và không mang lại hiệu quả. Cùng tìm hiểu các sai lầm thường gặp trong chẩn đoán và điều trị bệnh gout qua bài viết dưới đây.

1. Sơ lược về lâm sàng và điều trị gout

1.1. Về lâm sàng

Gout trải qua 4 giai đoạn từ khi âm thầm tích lOy acid uric trong máu cho đến cuối giai đoạn 4 mới xuất hiện Gout Tophi Mạn tính (1). Sau một  quá  trình  phát triển lâu dài trên dưới 10 năm, gout gặp nhiều nhất ở ngón chân cái. Soi dịch khớp dưới kính hiển vi thấy các tinh thể hình kim monosodium urate.

Chân của người bệnh gout
Chân của người bệnh gout (Ảnh internet)

Cần phân biệt với bệnh Giả Gout (2) do lắng đọng các tinh thể calcium pyrophosphate tại một hay nhiều khớp, thường gặp ở người già, đa số không có triệu chứng. Soi dịch khớp dưới kính hiển vi thấy các tinh thể hình thoi.

(1) Gout Tophi Mạn tính  (Chronic Tophaceous Gout)

(2) Giả Gout (Pseudogout)

Xem thêm: Tổng quan tất cả các vấn đề về bệnh gout – TS.BS Tăng Hà Nam Anh?

1.2. Thuốc chữa các cơn gout

Thuốc chữa và đề phòng các cơn gout sau đó gồm có:

– Các thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs). Gồm các thuốc mua không cần toa như ibuprofen (Advil, Motrin IB.) và naproxen sodium (Aleve.), cùng với các thuốc mạnh hơn phải cần toa như indomethacin (Indocin) hay celecoxib  (Celebrex).

Bác sĩ có thể cho liều cao hơn để làm dừng đợt cấp, tiếp theo là liều hàng ngày thấp hơn để phòng các đợt tái phát.

NSAIDs có nguy cơ gây đau dạ dày, chảy máu và loét.

– Colchicine (Colcrys, Mitigare) là thuốc giảm đau có hiệu quả. Tuy vậy thuốc có các tác dụng phụ như buồn nôn, nôn, tiêu chảy.

Sau khi hết cơn gout cấp, bạn có thể dùng colchicine liều thấp mỗi ngày để phòng tái phát.

– Corticosteroids. Thí dụ như prednisone, có  thể  kiểm  soát tình trạng viêm và đau. Có thể dùng thuốc viên hay thuốc tiêm vào  khớp.

Corticosteroids thường dành cho người không thể dùng NSAIDs hay colchicine. Các tác dụng phụ của corticosteroids có  thể là: thay đổi tính khí, tăng đường – huyết và tăng huyết áp.

Xem thêm: Tổng hợp các phương pháp điều trị gout?

1.3. Thuốc dự phòng biến chứng của gout:

Nếu bạn bị vài ba cơn gout mỗi năm hoặc bị thưa hơn nhưng rất đau, bác sĩ có thể cho dùng các thuốc làm giảm nguy cơ biến chứng có liên quan với gút. Các lựa chọn có thể là:

– Các thuốc ngăn chặn sản xuất acid uric. Ví dụ các thuốc chế xanthine oxidase, gồm có allopurinol (Aloprim, Lopurin, Zyloprim) và febuxostat (Uloric) làm hạn chế việc tạo ra acid uric. Thuốc này làm hạ acid uric – máu và giảm nguy cơ của gút.

Các tác dụng phụ của allopurinol bao gồm phát ban và giảm tế bào máu. Các tác dụng phụ của febuxostat là phát ban và giảm chức năng gan.

– Thuốc làm tăng loại b6 acid uric. Probenecid (Probalan) cải thiện khả năng của thận loại b6 acid uric khỏi cơ thể. Làm giảm acid uric và giảm nguy cơ của gout, nhưng acid uric trong nước tiểu lại tăng. Các tác dụng phụ là phát ban, đau dạ dày và sỏi thận.

Xem thêm: Những biến chứng nguy hiểm của bệnh gout có thể dẫn đến tàn phế

2. Các sai lầm trong chẩn đoán và điều trị bệnh gout

Gout là một rối loạn chuyển hóa mạn tính. Tình trạng tăng acid uric gây lắng đọng chất này ở mô dưới da, gân, khớp, thận gây ra tình trạng bệnh lý cho các tạng này chẳng hạn như viêm khớp, sỏi thận, suy thận. Người bị bệnh gout có nguy cơ cao về các bệnh lý tim mạch.

Cho đến nay, các bác sĩ đều đồng ý với nhau rằng gout là một bệnh lý toàn thân chứ không chỉ tập trung cục bộ ở khớp như từng được quan niệm trước đây. Nguồn gốc của acid uric trong máu không phải chỉ đến từ bên ngoài mà còn do tình trạng chuyển hóa trong cơ thể.

Các sai lầm về chẩn đoán và điều trị bệnh gout đến từ ba phía:

(1) Bệnh nhân thiếu hiểu biết và không được truyền bá đầy đủ kiến thức về bệnh gout.

(2)  Bác sĩ điều trị thường khi thấy bệnh thuyên giảm thì cho  là  mọi  cái đã tốt đẹp nhưng sự thật thì acid uric – máu tương đối cao ở bệnh nhân hay dao  động lên xuống sẽ làm hư hại dần chức năng của thận – đây là điều tồi tệ nhất

(3) bảo hiểm y tế với một đôi điều còn bất cập.

2.1. Về phía bệnh nhân

Nhiều người nghĩ rằng khi điều trị thuốc và hết đau là đã khỏi bệnh gút. Thực ra, khi bạn uống thuốc và hết đau thì chỉ mới có nghĩa là tạm thời giải quyết được tình trạng viêm của khớp hay gân. Nên nhớ rằng bệnh gout có diễn biến rất mạn tính, kéo dài trong nhiều năm, thậm chí rất lâu trên dưới 10 năm.

Các khuyến cáo đều khuyên là nếu bệnh nhân ổn định về mặt lâm sàng và acid uric – máu trở về bình thường thì cần tiếp  tục điều trị thêm trong 3 tháng để ngăn ngừa tái phát với người chưa có tophi và trong 6 tháng nếu đã có tophi.

2.1.1. Ăn kiêng triệt để sẽ không bị các cơn gout tái phát?

Không hoàn toàn đúng. Vì acid uric đến từ nguồn nội tại trong cơ thể. Tuy vậy cũng nên hạn chế dùng các thực phẩm chứa nhiều purin (nội tạng động vật, các loại thịt lên men, hải sản, một số ngũ cốc và các loại hạt.),  rượu, bia.

Xem thêm: Người bị gout nên ăn gì? kiêng gì?

2.1.2. Nước ngọt có ga an toàn với người bị gout?

Nước có gas an toàn cho người bệnh gout?
Nước có gas an toàn cho người bệnh gout? (Ảnh internet)

Hoàn toàn sai. Vì các loại nước ngọt có ga làm tăng acid uric trong máu, không thua kém gì bia. Cần kiêng dùng nước ngọt có ga, nhất là khi dùng với hải sản.

2.1.3. Một số người tin vào nước ép trái dưa leo hoặc một số cây như cây đất nở hoa hoặc một số bài thuốc đăng trên cộng đồng mạng có thể chữa khỏi dứt điểm bệnh gout.

Không đáng tin. Thực tế cho đến nay chưa có nghiên cứu nào đưa ra được các biện pháp điều trị khỏi triệt để bệnh gout. Tuy nhiên một số bài thuốc dân gian có tác dụng hỗ trợ điều trị hoặc làm giảm triệu chứng đã cho kết quả trên thực tiến. Mặc dù vậy bạn vẫn nên tham khảo ý kiến từ các bác sỹ chuyên ngành y học cổ truyền trước khi quyết định sử dụng thuốc nam để điều trị.

Xem thêm: Cách chữa bệnh gout bằng thuốc nam

2.1.4. Bệnh gout chỉ ảnh hưởng đến khớp nên không nguy hiểm đến tính mạng, do vậy không cần phải theo dõi lâu dài?

Rất sai. Vì bệnh nhân gút có nguy cơ bị thêm bệnh lý thận có thể dẫn đến sỏi thận, suy thận. Tỷ lệ bệnh lý tim mạch tăng cao ở người bị gút và có thể gây ra các biến cố tim mạch chết người. Bạn cần được theo dõi và điều trị tích cực bệnh gout.

2.1.5. Chỉ có đàn ông tuổi trung niên là mắc bệnh gout?

Sai. Mặc dù bệnh gút hay gặp nhất ở đàn ông trung niên tuổi trên 40, nhưng với các chuẩn sinh hoạt được cải thiện, chế độ ăn purine ngày một cao, và với tỉ lệ tiêu thụ rượu bia khủng như ở nước ta hiện nay thì bệnh gút có thể gặp ở mọi lứa tuổi.

2.1.6. Người giàu có chế độ ăn giàu đạm mới bị gout?

Cũng sai. Người ta nhận thấy người nghèo cũng có tỷ lệ bệnh gout  cao  như  mọi  người,  giàu nghèo đều có thể bị bệnh gout.

2.1.7. Trong bệnh gout phải có dấu hiệu  acid uric – máu  cao?

Không nhất thiết. Nhiều người đi thử máu thấy có hàm lượng acid uric cao, họ cho rằng đương nhiên là họ mắc bệnh gout. Nói chung chỉ có khoảng 10% số người có acid uric trong máu cao bị bệnh gout.

Cũng vậy, khi điều trị gout, các bệnh nhân acid uric – máu cao thường mong cho hàm lượng acid uric – máu giảm xuống. Quan niệm này ngày nay không còn  đúng  nữa  và  đôi  khi  còn ngược lại, acid uric sụt giảm có thể làm nặng thêm cơn bệnh gút. Vì rằng acid uric – máu có thể bị sụt giảm đột ngột do lắng đọng các tinh thể urate không hòa tan bên trong các khớp và mô chung quanh, điều này khởi xướng một viêm khớp do gout – tình trạng này cũng được gọi là viêm khớp di căn ‘metastatic arthritis’.

Do đó trong điều trị, thường người ta bắt đầu bằng các liều nhỏ thuốc làm giảm acid uric và tăng dần lên tới liều đầy đủ.

Xem thêm: Tăng acid uric trong máu có phải là bị bệnh gout không?

2.1.8. Các kháng sinh có thể chống lại gout?

Sai. Các kháng sinh thực tế không có tác dụng gì đến chuyển hóa của acid uric. Sự áp dụng một cách khoa học và hợp lý việc điều chỉnh các thuốc chuyển hóa acid uric, giúp khôi phục sự thăng bằng của chuyển hóa acid uric trong cơ thể mới là các nguyên lý của điều trị.

2.1.9. Có thể điều trị gout từng thời kỳ ngắn?

Sai. Điều trị ngắn hạn chỉ có thể làm giảm nhẹ triệu chứng, và theo thời gian bệnh sẽ quay trở lại không thể tránh khỏi. Như vậy điều trị gút phải có kế hoạch dài hạn dưới sự hướng dẫn của bác sĩ.

2.1.10. Bệnh  gout có gây hại cho thận?

Sau cơn gout, thường bạn chỉ quan tâm đến các triệu chứng của khớp và acid uric mà không đánh giá xem các thận bị hư hại ra sao.

Gout không chỉ làm tổn thương đến các khớp mà nó cũng có thể sinh ra các tinh thể nhỏ ở trong thận và đưa đến sỏi thận, suy thận. Do đó, người bị gout phải lưu ý thử các chức năng thận để có thể phát hiện kịp thời các hậu quả tệ hại trên thận. Bạn cũng cần chú ý là các thuốc chống đau dùng trong bệnh gout cũng có thể gây độc hại cho thận.

2.2. Về phía bác sĩ điều trị

Một số bác sĩ chưa nhận thức được về cơ bản gout là một bệnh lý có diễn biến mạn tính và cần được điều trị lâu dài. Thông thường các bác sĩ khi điều trị cho bệnh nhân khỏi cơn gout cấp thì coi như là đã xong, không quan tâm đến việc điều trị phòng tái phát về sau.

2.2.1. Các hạt tophi đều cần phải mổ để loại bỏ?

Các tophi trên ngón tay
Các tophi trên ngón tay (Ảnh internet)

Điều này không đúng, vì một số tophi chưa có biến chứng có thể sẽ teo nhỏ nếu việc điều trị giảm acid uric trong máu hiệu quả. Chỉ định mổ khi các tophi có thể gây biến chứng như loét da, hủy xương, quá to ảnh hưởng đến chức năng của chi hay sinh hoạt hàng ngày.

2.2.2. Điều trị hạ acid uric-máu chỉ cần đưa về ngưỡng bình thường dưới 7 mg/dL là đủ?

Có những khuyến cáo mới: cần đưa nồng độ acid uric về dưới 6 mg/dL cho những người không có lắng đọng tinh thể acid uric ở khớp hay chưa có tophi và dưới 5 mg/dL khi đã có tophi.

2.3. Về phía Bảo hiểm y tế

Các  toa  thuốc  điều  trị  dự phòng  sẽ  bị  xuất  toán  nếu bác sĩ ghi ‘cơn gout ổn định’ và vẫn cho dùng tiếp tục các thuốc hạ acid uric – máu và  thuốc dự phòng cơn gout tái phát như các thuốc NSAIDs, colchicine hay corticosteroids liều thấp. Thực tế các điều trị này là rất cần thiết. Những bệnh nhân gout sẽ không được nhận toa thuốc điều  trị  thời  gian  dài  vì  gout vẫn  chưa  được xếp  vào nhóm bệnh mạn tính và có nhiều nguy cơ nếu không được điều trị đến nơi đến chốn.

3. Tóm lại

Gout là bệnh rối loạn chuyển hoá mạn tính. Gout có thể để lại những hậu quả nặng nề nếu điều trị không đúng cách. Chúng ta cần có sự hợp tác thật tốt của cả ba bên gồm bệnh nhân, bác sĩ và bảo hiểm y tế để có thể quản lý bệnh nhân tốt hơn nhằm phòng tránh cho bệnh nhân các nguy cơ như hư khớp, bệnh thận và tim mạch có thể gây tử vong hoặc tàn phế.

TS BS Tăng Hà Nam Anh

Trích Tạp chí “Sống khỏe” số 25 – Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

Tìm kiếm bác sĩ tư vấn trực tiếp

Để lại bình luận hoặc câu hỏi của bạn

Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận